
- Bí quyết thành công cắt giảm sử dụng kháng sinh ở bệnh viện - 30 January, 2020
- Tuổi thọ của Hoa Kỳ giảm và xu hướng xấu của giới trẻ hiện đại - 30 January, 2020
- Hoa Kỳ: 2 trong 5 người tự chẩn đoán sai các bệnh nguy hiểm khi tự tra cứu “bác sĩ Google” - 30 January, 2020
Nhiều người nhầm lẫn Alzheimer một phần bình thường của quá trình lão hóa nhưng trên thực tế, Alzheimer là một loại bệnh độc lập. Bệnh Alzheimer là bệnh gây ra những thay đổi bất thường trong não, ảnh hưởng chủ yếu đến trí nhớ và khả năng trí tuệ. Triệu chứng thường gặp nhất là mất trí nhớ, sau đó, ở những giai đoạn nặng hơn, bệnh nhân có thể mất đi khả năng lý luận, ngôn ngữ, khả năng ra quyết định, phán đoán và các kỹ năng quan trọng khác, thậm chí trong một số trường hợp ghi nhận cả sự thay đổi về tính cách và hành vi, khiến người bệnh không thể kiểm soát cuộc sống hàng ngày nếu không có sự giúp đỡ của người khác.
Bệnh Alzheimer là hình thức phổ biến nhất của bệnh sa sút tâm thần (sa sút trí tuệ) ở người lớn tuổi. Các thuật ngữ “Alzheimer” và “bệnh sa sút tâm thần” (sa sút trí tuệ) thường được sử dụng thay thế cho nhau, nhưng tình trạng bệnh không giống nhau. Bệnh Alzheimer chiếm khoảng 60% đến 80% trong những bệnh làm suy giảm trí nhớ. Hơn 5 triệu người Mỹ đang chung sống với bệnh Alzheimer’s. Số lượng người Mỹ mắc bệnh Alzheimer’s và các chứng suy giảm trí nhớ khác sẽ tăng lên mỗi năm khi tỉ lệ dân số Mỹ ở độ tuổi trên 65 tiếp tục gia tăng.
Hiện nay, hiểu biết của con người về nguyên nhân và sự tiến triển của Alzheimer còn rất hạn hẹp. Hiện tại cũng chưa có xét nghiệm đặc hiệu nào cho bệnh Alzheimer. Thông thường, để chẩn đoán xác định một bệnh nhân Alzheimer, cần xác minh được biểu hiện mất trí nhớ là bất thường ở bệnh nhân (chứ không phải do lão hóa thông thường) và các kiểu triệu chứng phù hơp với Alzheimer, việc này đôi khi cần các test/kiểm tra trí nhớ chuyên biệt. Sau đó, cần làm các xét nghiệm để loại trừ các bệnh khác có thể gây ra các triệu chứng tương tự: trầm cảm, suy dinh dưỡng, thiếu vitamin, rổi loạn tuyến giáp, rối loạn chuyển hóa, lạm dụng thuốc,… Cuối cùng, quan trọng nhất, bệnh nhân cần được chẩn đoán xác định bởi một bác sĩ chuyên về bệnh Alzheimer, thông thường là bác sĩ chuyên khoa thần kinh. Tại đây, bác sĩ sẽ làm một loạt các bài test/kiểm tra khả năng đáp ứng của bệnh nhân đồng thời có thể bao gồm cả việc chụp cộng hưởng từ (MRI) hay chụp cắt lớp điện toán (CT), sau đó mới có thể đi tới kết luận xác định. Nếu bác sĩ có nhiều kinh nghiệm về bệnh Alzheimer thì chẩn đoán bệnh Alzheimer có thể đạt tới độ chính xác hơn 90%.

Mới đây nhất, ngày 01 tháng 08 năm 2019, trên tạp chí trực tuyến Neurology (tạp chí chuyên ngành thần kinh học của hiệp hội thần kinh Hoa Kỳ), một nghiên cứu mới được công bố về phương pháp xét nghiệm máu mới giúp phát hiện những thay đổi sớm trong não bộ – đặc trưng của bệnh Alzheimer với độ chính xác lên tới 94%. Cụ thể, phương pháp này dựa trên cơ chế đo tỷ lệ β-amyloid 42 (Aβ42) và β-amyloid 40 (Aβ40) trong máu bằng xét nghiệm có độ chính xác cao trong chẩn đoán tình trạng lắng đọng amyloid (tình trạng amyloidosis) tại não bộ, được đối chứng bởi hình ảnh PET hoặc CSF phosphorylated (p-tau) 181/Aβ42. Những công bố này khẳng định bước tiến gần hơn với kỳ vọng “thay đổi cuộc chơi” cho lĩnh vực này.
Giáo sư, Tiến sĩ. Randall J. Bateman, Đại học y khoa Washington, St. Louis, Hoa Kỳ, nghiên cứu viên cao cấp của nghiên cứu công bố: “Hiện tại, chúng ta đang phải sàng lọc các bệnh nhân có Alzheimer để tham gia thử nghiệm lâm sàng bằng phương pháp quét (scan) não, một phương pháp tốn nhiều thời gian và tốn nhiều chi phí, và phải mất hàng năm để tìm kiếm được những người tham gia”. “Nhưng với xét nghiệm máu, chúng ta có khả năng sàng lọc hàng ngàn người mỗi tháng. Điều đó có nghĩa là chúng ta có nhiều người đăng ký tham gia thử nghiệm lâm sàng hiệu quả hơn, chắc chắn sẽ giúp chúng ta tìm ra phương pháp điều trị nhanh hơn và sẽ có tác động to lớn đến chi phí điều trị bệnh cũng như giải tỏa sự đau khổ của bệnh nhân đang phải sống chung với bệnh.”
Công cụ sàng lọc dễ dàng
Sử dụng phương pháp thúc đẩy miễn dịch và chromatography – phân tích đo lường quang phổ, các nhà nghiên cứu đã tiến hành đo lường tỷ lệ Aβ42 / Aβ40 trong huyết tương và dịch não tủy của 158 người cao tuổi có nhận thức bình thường song song với chụp PET amyloid trong thời gian 18 tháng.
Báo cáo từ các nhà nghiên cứu cho thấy tỷ lệ Aβ42 / Aβ40 tương thích rất cao với hình ảnh PET amyloid và CSF p-tau181 / Aβ42.
Sự kết hợp tỷ lệ Aβ42 / Aβ40 trong huyết tương, tuổi và chỉ số apolipoprotein (APOE) ε4 tương thích rất cao với hình ảnh PET amyloid. Điều này nghĩa là tỷ lệ Aβ42 / Aβ40 trong huyết tương có thể được sử dụng như một công cụ sàng lọc cho những người có nguy cơ mắc bệnh Alzheimer.
Thêm vào đó, những người có tỷ lệ Aβ42 / Aβ40 dương tính nhưng hình ảnh PET amyloid âm tính có nguy cơ cao gấp 15 lần phát triển thành dương tính ở hình ảnh PET amyloid. Tiến sĩ. Randall J. Bateman và đồng nghiệp lưu ý: “Độ nhạy của xét nghiệm Aβ42 / Aβ40 trong huyết tương đối với các trường hợp âm tính với PET amyloid sau đó phát triển sang amyloid PET dương tính cho thấy tỷ lệ Aβ42 / Aβ40 trong huyết tương trở nên dương tính sớm hơn ngưỡng PET amyloid được thiết lập cho nghiên cứu này”. “Do đó, các trường hợp có tỷ lệ Aβ42 / Aβ40 huyết tương dương tính và quét PET amyloid âm tính có thể là biểu hiện amyloidosis sớm, chính xác hơn các kết quả dương tính giả ở một số trường hợp.”
Các nhà nghiên cứu lưu ý: Ứng dụng ngay lập tức của xét nghiệm Aβ42 / Aβ40 trong huyết tương là sàng lọc bệnh amyloidosis não bộ ở những người tham gia thử nghiệm thuốc điều trị Alhzeimer.
Các nhà nghiên cứu ước tính rằng trong một thử nghiệm phòng ngừa (tương tự như thử nghiệm: Điều trị chống Amyloid trong nghiên cứu bệnh Alzheimer không triệu chứng (A4), một thử nghiệm lâm sàng pha III, về hiệu quả của thuốc solanezumab trong chậm tiến triển bệnh Alzheimer, đang được tiến hành trên đa trung tâm tại Hoa Kỳ, dự kiến có kết quả vào tháng 12 năm 2020), việc sàng lọc bằng huyết tương Aβ42 / Aβ40 sẽ làm giảm số lần quét PET amyloid cần thiết đến 62%, “giúp giảm đáng kể thời gian và chi phí cho sàng lọc và nhận bệnh nhân.”

“Thay đổi cuộc chơi”
Trong một tham luận xuất bản cùng nghiên cứu, Tiến sĩ Barbara Bendlin, thuộc Trung tâm nghiên cứu bệnh Alzheimer Wisconsin, tại Madison, Hoa Kỳ và Tiến sĩ Henrik Zetterberg, thuộc Viện nghiên cứu sa sút tâm thần Vương quốc Anh ở London, cho biết: Những phát hiện này có thể là “thay đổi cuộc chơi” trong lĩnh vực nghiên cứu bệnh Alzheimer. “Kết quả rất ấn tượng” đã cho thấy tỷ lệ của hai peptide này có tương quan với PET amyloid cũng như với tỷ lệ CSF p-tau / Aβ42.
Hai nhà nghiên cứu cũng chỉ ra: “Đáng chú ý, trong một nhóm nhỏ những người âm tính với amyloid trên hình ảnh PET so với tiêu chuẩn, xét nghiệm huyết tương dự đoán sự tiến triển trong tương lai sang amyloid dương tính trên hình ảnh PET”.
TS. Barbara Bendlin và TS. Henrik Zetterberg cũng nhận định: “Kết quả của nghiên cứu này cộng hưởng tốt với các nghiên cứu trước đó và chỉ ra khả năng thực sự của việc sử dụng chỉ dấu sinh học huyết tương để sàng lọc bệnh amyloidosis não bộ.” Tuy nhiên, đối với điều trị lâm sàng cũng còn nhiều việc phải làm.
Hai nhà nghiên cứu cũng lưu ý rằng nghiên cứu được thực hiện trên đa phần những người chưa suy giảm nhận thức và từ đây cho thấy ý nghĩa to lớn trong ứng dụng điều trị tiền lâm sàng, nhưng sẽ giới hạn trong việc khái quát hóa lên quy mô lớn hơn cho những người có dấu hiệu lâm sàng điển hình.
Nguồn: Hiệp hội Alzheimer (https://www.alz.org/)