
- Những nguồn thông tin Y-Dược hữu ích Dược sĩ cần biết - 6 October, 2019
- 5 điểm nổi bật tại Hội nghị thường niên Hiệp hội nghiên cứu bệnh đái tháo đường Châu Âu (EASD) 2019. - 27 September, 2019
- Bệnh Melioidosis (bệnh Withmore) - 18 September, 2019
Bệnh Melioidosis còn được gọi là bệnh Whitmore là bệnh nhiễm trùng trên người và động vật. Nguyên nhân gây bệnh là vi khuẩn có tên khoa học Burkholderia pseudomallei.
Bệnh chủ yếu xuất hiện ở các khu vực nhiệt đới, đặc biệt khu vực Đông Nam Á và phía Bắc Australia. Loại vi khuẩn gây bệnh melioidosis được tìm thấy ở nguồn nước bẩn và trong đất. Vi khuẩn lây lan qua người và động vật thông qua tiếp xúc trực tiếp với các nguồn chứa mầm bệnh.

Bệnh Melioidosis nguy hiểm như thế nào?
Melioidosis là bệnh lý nghiêm trọng. Vi khuẩn gây bệnh kháng với rất nhiều kháng sinh thường gặp, điều này làm cho bệnh khó điều trị. Mặc dù vậy, vẫn có một vài kháng sinh hiểu quả. Nếu không được điều trị, có đến 9 trong 10 người mắc bệnh sẽ tử vong. Khi bệnh nhân được điều trị đúng kháng sinh, tỷ lệ tử vong khoảng 4 trong 10 người mắc bệnh. Điều trị tích cực với trang thiết bị y tế hiện đại, tỷ lệ tử vong sẽ có thể được giảm xuống thấp hơn, khoảng 2 trong 10 người mắc bệnh.
Một số nhóm bệnh nhân có nguy cơ mắc bệnh cao hơn người khác khi tiếp xúc với nguồn bệnh. Các nhóm này bao gồm bệnh nhân đái tháo đường, nghiện rượu nặng, bệnh phổi mạn tính, bệnh thận hoặc các bệnh lý khác ảnh hưởng lên hệ miễn dịch.
Người mắc bệnh melioidosis cần điều trị nội viện. Ngay cả khi đã phục hồi và xuất viện, bệnh nhân vẫn cần sử dụng kháng sinh trong vài tháng. Việc kéo dài thời dan điều trị nhằm đảm bảo kháng sinh sẽ tiêu diệt hết toàn bộ vi khuẩn gây bệnh và phòng bệnh tái phát.
Việc chẩn đoán nhanh bệnh khá khó khăn. Các triệu chứng bệnh tương tự nhiều bệnh thường gặp khác như viêm phổi cộng đồng, cúm hoặc lao. Chỉ có một vài ca mắc bệnh được ghi nhận mỗi năm tại Mỹ. Do bệnh hiếm gặp, nên bác sĩ có thể chưa có nhiều kinh nghiệm trong điều trị bệnh.
Lây truyền
Người có thể mắc bệnh Melioidosis khi tiếp xúc trực tiếp với đất và nguồn nước chứa vi khuẩn.
Người ta cho rằng vi khuẩn xâm nhập cơ thể người và động vât thông qua việc hít phải bụi và những giọt nước nhỏ mang mầm bệnh, ăn/uống phải nguồn nước mang mầm bệnh và tiếp xúc trực tiếp với đất chứa vi khuẩn, đặc biệt là khi da bị trầy xước.
Rất hiếm khi bệnh lây trực tiếp từ người qua người. Trong khi chỉ có một vài trường hợp lây nhiễm theo con đường này được ghi nhận thì nguồn nước và đất chứa vi khuẩn là nguồn lây nhiêm chính ở người.
Bên cạnh người, một số động vật cũng có thể mắc bệnh Melioidosis như:
- Cừu
- Dê
- Lợn
- Ngựa
- Mèo
- Chó
- Gia súc

Triệu chứng
Bệnh Melioidosis có thể chia thành một số dạng nhiễm trùng, mỗi dạng có các triệu chứng riêng. Tuy nhiên cần lưu ý triệu chứng của Melioidosis rất đa dạng và dễ nhầm với nhiều bệnh khác như lao hoặc nhầm với các dạng viêm phổi phổ biến hơn. Dưới đây là triệu chứng của một số dạng nhiễm trùng phổ biến.
Nhiễm khuẩn tại chỗ (localized infection):
- Đau, sưng tấy tại khu vực nhiễm trùng.
- Sốt
- Loét
- Áp xe (abscess)
Viêm phổi:
- Ho
- Đau ngực
- Sốt cao
- Đau đầu
- Chán ăn
Nhiễm trùng huyết:
- Sốt
- Đau đầu
- Suy hô hấp
- Khó chịu vùng bụng
- Đau khớp
- Mất định hướng
Nhiễm trùng lan tỏa (disseminated infection):
- Sốt
- Sụt cân
- Tức ngực hoặc đau vùng dạ dày
- Đau cơ hoặc đau khớp
- Đau đầu
- Co giật
Thời gian từ lúc tiếp xúc với vi khuẩn đến khi các triệu chứng xuất hiện chưa được xác định rõ ràng, có thể thay đổi trong khoảng rất rộng từ một ngày cho đến nhiều nằm. Thông thường các triệu chứng sẽ xuất hiện từ hai đến bốn tuần sau khi tiếp xúc mầm bệnh.
Mặc dù bệnh có thể xuất hiện trên người khỏe mạnh, nhưng các yếu tố nguy cơ chính bao gồm:
- Đái tháo đường
- Bệnh về gan
- Bệnh về thận
- Bệnh tán huyết bẩm sinh (Thalassemia)
- Ung thư hoặc suy giảm miễn dịch không liên quan đến HIV
- Bệnh phổi mạn tính (như xơ nang, COPD, giãn phế quản)
Nguy cơ nhiễm bệnh (risk of exposure)
Mặc dù bệnh melioidosis có thể xuất hiện khắp nơi trên toàn thế giới nhưng nó chủ yếu được phát hiện ở khu vực Đông Nam Á và phía Bắc Australia.
Tại Mỹ, số ca xác định mắc bệnh được báo cáo trong những năm trước chỉ từ 0 đến 5 trường hợp và những trường hợp xuất hiện trên những khách du lịch nhập cảnh từ các vùng dịch tễ của bệnh.
Hơn nữa, bệnh còn được phát hiện trên các quân nhân của tất cả các quốc gia đã phục vụ tại vùng dịch tễ của bệnh.
Số lượng ca mắc melioidosis được báo cáo nhiều nhất tại:
- Thái Lan
- Malaysia
- Singapore
- Miền Bắc Australia
Mặc dù hiếm khi báo cáo, nhưng các trường hợp mắc bệnh được cho là phổ biến tại:
- Papua New Guinea
- Hầu hết các tiểu lục địa Ấn Độ
- Nam Trung Quốc
- Hong Kong
- Đài Loan
- Việt Nam
- Indonesia
- Cambodia
- Lào
- Myanmar (Burma)
Ngoài Đông Nam Á và Australia, các trường hợp mắc bệnh cũng được tìm thấy tại:
- Nam Thái Bình Dương (New Caledonia)
- Sri Lanka
- Mexico
- El Salvador
- Panama
- Ecuador
- Peru
- Guyana
- Puerto Rico
- Martinique
- Guadeloupe
- Brazil
- Nhiều vùng Châu Phi và Trung Đông
Điều trị
Sau khi chẩn đoán, bệnh melioidosis có thể điều trị bằng các kháng sinh thích hợp. Loại nhiễm khuẩn hoặc phác đồ điều trị được lựa chọn có thể ảnh hưởng đến kết quả điều trị lâu dài. Thông thường phác đồ điều trị thường bằng đầu bằng kháng sinh đường tĩnh mạch trong 10 – 14 ngày, sau đó điều trị duy trì bằng kháng sinh đường uống trong 3-6 tháng.
Các loại kháng sinh có hiệu quả đối với vi khuẩn gây bệnh melioidosis bao gồm:
Kháng sinh đường tĩnh mạch bao gồm:
- Ceftazidime mỗi 6-8 giờ hoặc Meropenem mỗi 8 giờ
Kháng sinh đường uống bao gồm:
- Trimethoprim-sulfamethoxazole ngày 2 lần hoặc Amoxicillin/clavulanic acid (co-amoxiclav) ngày 3 lần.
Trong trường hợp dị ứng với penicillin cần thông báo với bác sĩ điều trị để được sử dụng kháng sinh thay thế.

Phòng bệnh
Tại các vùng bệnh đang bùng phát, tiếp xúc với đất hoặc nguồn nước mang mầm bệnh tăng nguy cơ mắc melioidosis.
Tuy nhiên chúng ta có thể giảm thiểu nguy cơ mắc bệnh ở một vài nhóm bệnh nhân tại khu vực bệnh đang bùng phát:
- Người có vết thương hở, bệnh nhân đái tháo đường hoặc bệnh thận mạn có nguy cơ mắc melioidosis cao hơn và nhóm bệnh nhân này cần tránh tiếp xúc với đất hoặc nước đọng.
- Mang ủng bảo hộ khi làm ruộng có thể giúp phòng nhiễm trùng vùng bàn chân hoặc vùng chân dưới.
- Cán bộ y tế có thể sử dụng dụng cụ bảo hộ (khẩu trang, gang tay, áo choàng) để phòng lây nhiễm.
Thông tin dành cho cán bộ y tế

Chẩn đoán
Melioidosis được chẩn đoán bằng cách phân lập Burkholderia pseudomallei từ máu, nước tiểu, đờm, mảng da bị tổn thương, các ổ áp xe (abscess); hoặc phát hiện ra kháng thể đáp ứng đặc hiệu cho vi khuẩn.
Phân loại nhiễm trùng
Melioidosis có thể phân loại như một nhiễm trùng cấp hoặc nhiễm trùng tại chỗ, viêm phổi cấp, nhiễm trùng huyết cấp tính hoặc nhiễm trùng lan tỏa. Nhiễm trùng không triệu chứng (subclinical infection) cũng có thể có. Thời gian ủ bệnh (khoảng thời gian từ khi tiếp xúc mầm bệnh đến khi khởi phát triệu chứng lâm sàng) chưa được xác định rõ ràng, nó có thể thay đổi từ một ngày đến nhiều năm; thông thường triệu chứng xuất hiện 2-4 tuần sau khi tiếp xúc mầm bệnh. Mặc dù người khỏe mạnh cũng có thể mắc bệnh nhưng bệnh nhân đái tháo đường, bệnh nhân mắc bệnh gan, thận, tán huyết bẩm sung hoặc bệnh lý suy giảm miễn dịch không liên quan đến HIV có nguy cơ cao hơn.
Nhiễm trùng tại chỗ
Dạng nhiễm trùng này thường biểu hiện dưới dạng vết loét, các nốt hoặc các ổ áp xe trên da. Đây có thể là kết quả của nhiễm trùng thông qua tổn thương bề mặt da và có thể gây sốt, đau cơ. Ổ nhiễm trùng có thể khu trú tại chỗ hoặc tiến triền lan nhanh vào máu.
Viêm phổi
Đây là dạng phổ biến nhất của bệnh và có thể gây ra bệnh cảnh lâm sàng từ viêm phế quản nhẹ cho đến viêm phổi nặng. Thời điểm khởi phát của viêm phổi melioidosis (pulmonary melioidosis) thường được đánh dấu bằng sốt cao, đau đầu, chán ăn, đau nhức cơ. Đau ngực khá phổ biến, nhưng ho khan hoặc ho có đờm nhưng tính chất đờm bình thường là dấu hiệu của dạng melioidosis này. Tổn thương dạng hang (cavitary lesions) có thể quan sát thấy trên X-quang ngực tương tự như trong lao phổi.
Nhiễm trùng huyết
Bệnh nhân có các bệnh nền như đái tháo đường, suy thận dễ gặp dạng nhiễm trùng này và thường dẫn đến shock nhiễm trùng (septic shock). Các triệu chứng của nhiễm trùng huyết có thể bao gồm sốt, đau đầu, suy hô hấp, khó chịu vùng bụng, đau khợp, đau cơ và mất phương hướng. Dạng nhiễm trùng này thường khỏi phát rất nhanh và các ổ áp xe có thể được tìm thấy ở khắp cơ thể nhưng nhiều nhất ở gan, lá lách, tuyến tiền liệt.
Nhiễm trùng lan tỏa
Nhiễm trùng lan tỏa xuất hiện với sự hình thành áp xe ở nhiều cơ quan khác nhau trong có thể, có thể có hoặc không liên quan tới nhiễm trùng huyết. Các tạng thường bị ảnh hưởng bao gồm phổi, gan, lách và tuyến tiền liệt. Các khớp, xương, hạch bạch huyết, da hoặc não cũng có thể bị ảnh hưởng. Nhiễm trùng lan tỏa có thể thấy trong melioidosis cấp tính hoặc mạn tính. Bên cạnh sốt, các triệu chứng có thể bao gồm sút cân, tức ngực, đau vùng dạ dày, đau cơ hoặc đau khợp, đau đầu hoặc co giật.
Nguồn tham khảo: CDC
Thông tin chuyên sâu về bệnh có thể tham khảo tại: https://www.nejm.org/doi/full/10.1056/NEJMra1204699